|
|
|
|
|
Thời gian gần đây, Phương Tây liên tục coi Trung Quốc và một số nền kinh tế đang phát triển khác là các “thị trường mới nổi”, còn những nền kinh tế phát triển là các nền kinh tế “trưởng thành”. Nhưng thực tế những nền kinh tế mới nổi này vẫn tồn tại nhiều vấn đề chưa hoàn thiện, chưa kiện toàn cũng như chưa cân bằng. Trên thực tế, với các thị trường mới nổi, thể chế pháp luật, cơ cấu kinh tế cũng như hệ thống xã hội vẫn còn kém khá xa so các thể chế kinh tế “trưởng thành”. Mặc dù vậy, các nước Phương Tây vẫn coi nền kinh tế mới nổi là những thị trường cung ứng nguyên liệu chính cho họ. Có thể thấy, trong mắt các nước Phương Tây liên minh nhóm bốn nước BRIC chỉ là bước đệm thêm cho sự thịnh vượng của họ. Sự tồn tại của nhóm BRIC mang lại rất nhiều lợi ích cho sự phát triển của các nước Phương Tây. Giới truyền thông Phương Tây đã phân tích, đối với các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc, khi bão tố khủng hoảng đi qua, họ vẫn luôn đặt mục tiêu cho tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8%. Trong các chiến lược của mình, Trung Quốc luôn muốn mua lại toàn bộ tài sản cũng như tài nguyên của các nước khác. Có thể nói, cho đến thời điểm hiện tại, các thử nghiệm trong việc thu mua tài sản nước ngoài của các công ty Trung Quốc đã bộc lộ sự thiếu kinh nghiệm và những chính sách non kém của mình. Thời gian gần đây, Trung Quốc liên tục muốn tận dụng cơ hội “khủng hoảng tài chính”, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế để thúc đẩy vị thế của mình trên trường kinh tế thế giới. Trung Quốc thậm chí còn ôm tham vọng đưa đồng Nhân Dân Tệ thay thế đồng USD để trở thành đơn vị tiền tệ dự trữ quốc tế đầy toàn năng. Trung Quốc cũng liên tục cho rằng đồng USD đang mất giá nhằm gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư. Tuy vậy, gần đây việc Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài liên tục phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Trong các thương vụ với nước ngoài, Trung Quốc luôn có những “ý đồ chiến lược’ khiến các doanh nghiệp nước ngoài cảm thấy bất an. Suy cho cùng Trung Quốc vẫn là một "quốc gia mới nổi" vẫn còn suy yếu và mang nhiều “bậnh tật” cũng như hệ lụy từ bão tố khủng hoảng. Về thực tế kinh tế Trung Quốc chưa đủ lực để có thể gánh vác trọng trách về đứng đầu thế giới trong tất cả các lĩnh vực như thể chất, thể lực và khả năng. Các vấn đề này đối với Trung Quốc không phải là nhỏ, mà để thoát khỏi nó cần có một quá trình dài. Khoảng cách về kinh tế của Trung Quốc và các nước BRIC vẫn còn khá xa, và một chặng đường dài để đi. |
|
|
“Vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm nay, trong phiên họp của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, sự điều chỉnh các chính sách sẽ là rất lớn nhưng tác dụng của nó là không nhiều”. Lời nhận định trên được đưa ra bởi Tổng công ty Đầu tư Quốc tế Trung Quốc (CICC) hôm thứ bảy tuần trước. Theo nhận định của CICC, do lượng tiền bơm ra ồ ạt của giới ngân hàng khiến cho giá cả hàng hóa của các nước trên thế giới tăng vọt so với dự đoán, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ chốt khiến con số lạm phát của kinh tế xuất hiện. Theo dự đoán lạm phát sẽ “gõ cửa” kinh tế Trung Quốc sớm hơn so với kinh tế Mỹ Phía công ty CICC cũng đưa ra nhận định rằng, hiện tại, kinh tế Trung Quốc đang trong giai đoạn phục hồi, nhưng lạm phát vẫn xuất hiện trước so với kinh tế Mỹ. Năm 2010, theo dự đoán, thị trường chứng khoán cũng như thị trường nhà đất của Trung Quốc có chiều hướng dịu xuống, giá thị trường vốn sẽ phục hồi nhanh chóng, nhưng điều này cũng dẫn các chuyên gia phân tích đến một nỗi lo mới về lạm phát. Lạm phát sẽ là một áp lực mới đối với kinh tế Trung Quốc. Trung Quốc và một số quốc gia phát triển khác sẽ đối mặt với lạm phát sớm hơn của kinh tế Mỹ. Theo nhận định của các chuyên gia, đối với Trung Quốc và một số nước phát triển khác, lạm phát được thể hiện bởi sự biến đổi của giá cả hàng hóa. Từ năm nay, giá lương thực và giá một số hàng hóa khác đều tăng mạnh trên thị trường quốc tế. Chỉ số giá tiêu dùng CPI của Trung Quốc tăng 34%, của Ấn Độ tăng là 45% và của Mỹ là 10%. Có thể nói tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm nay có thẻ đạt được mục tiêu là 8%, nhưng kinh tế Trung Quốc không tăng trưởng mạnh được như trước đây, vì vậy những hệ lụy từ lạm phát sẽ nhanh chóng xuất hiện. |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Và những rủi ro lớn nhất cho kinh tế Trung Quốc được thể hiện ở 5 mặt lớn sau đây: Vấn đề thứ nhất, khủng hoảng tài chính làm lộ rõ vấn đề mất cân bằng về kết cấu kinh tế của Trung Quốc. Mức chi phí thấp của kinh tế Trung Quốc trong một thời gian dài đã khiến cho nền kinh tế nước này phát triển mạnh dựa trên quan hệ thương mại quốc tế và đầu tư thương mại, khiến cho hội nhập kinh tế quốc tế đã truyền dẫn sang nền kinh tế trong nước của Trung Quốc. Nhưng thời gian gần đây, kinh tế Trung Quốc với mức sản xuất mạnh nhưng chi phí không đủ đã bước vào giai đoạn nghiêm trọng. Mức tiêu dùng toàn dân của các nước phát triển là khoảng 78% trong khi con số này tại Trung Quốc đã giảm xuống 38%. Từ ý nghĩa này, với gói kích cầu 4000 tỷ Nhân Dân Tệ của Chính phủ Trung Quốc chỉ có thể giải quyết được vấn đề trước mắt là tốc độ tăng trưởng kinh tế đang giảm xuống, chứ không thể giải quyết được tận gốc vấn đề là sự mất cân bằng của cơ cấu kinh tế. Ngược lại, các vấn đề phát sinh từ việc đầu tư quá mức của cơ cấu kinh tế Trung Quốc phải từ 3 đến 5 năm nữa mới nhìn thấy được. Vấn đề thứ hai, chính sách tiền tệ nới lỏng về số lượng trước mắt cung mang lại những tác động có giới hạn cho nền kinh tế Trung Quốc. Để ứng phó với tác nhân khiến cho nền kinh tế đi xuống là khủng hoảng, cục quản ký tiền tệ Trung Quốc từ nửa đầu năm 2008 đã “quay ngoắt 180 độ” từ chính sách tiền tệ bó hẹp chuyển sang chính sách nới lỏng về số lượng. Hiện tại, tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng về số lượng không thực sự mang lại “tia sáng” cho nền kinh tế Trung Quốc. Bởi: Thứ nhất, vấn đề khiến kinh tế Trung Quốc suy yếu không phải là nằm ở chỗ thiếu các phương thức thanh toán linh động, cho đến nay các khoản tiền gửi ở ngân hàng Trung Quốc vẫn lên đến 4000 tỷ NDT. Vấn đề chủ yếu tồn tại của kinh tế Trung Quốc là nằm ở việc xem xét những cảnh giác đối với khủng hoảng, cần phải có thái độ thận trọng đối với các khoản tiền gửi của các ngân hàng vừa và nhỏ. Hơn nữa, từ góc độ tiêu dùng của người dân, hệ thống an sinh xã hội của Trung Quốc không hoàn thiện khiến cho mức tiêu dùng của người dân cũng cần thận trọng hơn. Vấn đề thứ ba, tính chất khủng hoảng của kinh tế Trung Quốc và của các nền kinh tế châu Âu và Mỹ là không giống nhau. Khủng hoảng nổ ra, kinh tế Trung Quốc phản ánh rõ tính chất là khủng hoảng của thể chế kinh tế dẫn đến khủng hoảng của hệ thống tiền tệ, do vậy mà sự nguy hiểm càng trở nên nghiêm trọng hơn. Bắt nguồn từ phố Wall, khủng hoảng tài chính như một căn bệnh dịch lan truyền đến mọi ngóc ngách nền kinh tế, và từng bước gây ảnh hưởng mạnh đến thể chế tài chính - đây chính là vòng tuần hoàn khủng hoảng của Mỹ và các nước nước Phương Tây. Nhưng hướng khủng hoảng với kinh tế Trung Quốc lại ngược lại. Mặc dù các công ty của Trung Quốc (bao gồm các công ty đầu tư) cũng chịu những tổn thất nặng nề khi đầu tư tại Mỹ, nhưng về cơ bản họ chưa thể làm lung lay được sự an toàn trong hệ thống tài chính Trung Quốc. Hệ thống tài chính Trung Quốc hoàn toàn bị nhu cầu từ thị trường nước ngoài “im hơi lặng tiếng” mà chịu tác động mạnh. Vấn đề thứ tư, hiệu quả của gói kích cầu 4000 tỷ Nhân Dân Tệ vẫn còn hạn chế. Trước hết, quy mô đầu tư dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, trong quá trình thực hiện cũng không thể tránh khỏi vấn đề tham nhũng, từ đó có thể khiến cho hiệu quả của việc đầu tư giảm xuống. Nhiều người dân Trung Quốc cũng bắt đầu quan ngại rằng quá trình phân phối gói kích cầu 4000 tỷ NDT của Chính phủ sẽ làm thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước vì nạn tham nhũng. Hơn nữa, từ gói kích cầu 4000 tỷ NDT của Chính phủ Trung Quốc lại đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng, trong đó 2000 tỷ Nhân Dân Tệ đầu tư vào hệ thống đường sắt mà không chú trọng vào đầu tư kích thích tiều dùng của người dân. Khiến cho hiệu quả từ gói kích cầu của Chính phủ cũng bị hạn chế. Vấn đề thứ năm, khủng hoảng khiến lượng lớn vốn nước ngoài rút lui khỏi Trung Quốc, khiến tiến trình phục hồi thêm dài…. Việc đồng Nhân Dân Tệ mất giá hơn so với dự đoán cũng như tình cảnh xuất khẩu ảm đạm khiến cho các công ty trong nước rơi vào tình cảnh bi đát cũng là nguyên nhân làm cho rủi ro với các nguồn vốn nước ngoài đổ vào Trung Quốc tăng lên. Việc nguồn vốn đầu tư của các công ty nước ngoài đổ vào Trung Quốc giảm xuống cũng trở thành một vấn đề nghiêm trọng cho các cơ quan quản lý tiền tệ của Trung Quốc trong tương lai. |
Nguồn tin |
|
|
Cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại của WTO đã đưa ra quyết định trên theo yêu cầu của đoàn đại biểu Trung Quốc trong cuộc họp của ngày hôm qua. Đoàn đại biểu Trung Quốc cho biết, từ năm 2007, Mỹ đã thông qua luật biểu quyết ngân sách theo năm và một các có biện pháp có liên quan, hoàn toàn cấm nhập khẩu thịt gia cầm của Trung Quốc. Biện pháp đơn phương này đã vi phạm nghiêm trọng các quy tắc có liên quan của WTO như “Thỏa thuận thương mại và thuế quan”, “Thỏa thuận nông nghiệp”. Hành động này cũng cản trở cho việc triển khai buôn bán thịt gia cầm Trung – Mỹ, gây tổn hại đến lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp sản xuất thịt gia cầm, là một biện pháp mang màu sắc của chủ nghĩa bảo hộ thương mại điển hình. Chính phủ và các doanh nghiệp Trung Quốc kiên quyết phản đối. Theo tuyên bố của đoàn đại biểu Trung Quốc, phía Trung Quốc hy vọng tổ chuyên gia của WTO xử lý hồ sơ một cách công bằng, minh bạch, bảo vệ sự phát triển bình thường thương mại quốc tế. Trung Quốc quyết tâm vận dụng quy tắc của WTO, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp sản xuất thịt gia cầm Trung Quốc cạnh tranh công bằng trên thị trường. Hôm 20/7, đoàn đại biểu Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu lập tổ chuyên gia tới WTO, nhưng đã vấp phải sự từ chối của đoàn đại biểu Mỹ. Theo trình tự giải quyết tranh chấp của WTO, khi đưa ra lời yêu cầu tương tự như vậy lần thứ hai, phía bị cáo không được phép từ chối. Tổ chuyên gia của WTO do 3 -5 thành viên thành lập, người được tuyển chọn do Cơ quan giải quyết tranh chấp và phía đương sự thỏa thuận xác định. Nếu không thể đạt được nhất trí chung, Tổng giám đốc WTO sẽ trực tiếp tham gia. Thời gian làm việc của tổ chuyên gia này sẽ khoảng 45 ngày, thời gian xử lý tranh chấp và công bố báo cáo xem xét cuối cùng là trên 6 tháng. |
|
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét