Diễn đàn thanh niên cộng sản Việt nam này được xuất phát từ ý tưởng bảo vệ đường lối phát triển của lãnh đạo và nhân dân Việt nam.Bao gồm các thành viên trong mạng Internet( và mạng Chát Paltalk ).
Trưa thứ bảy 30-9-06 tại khu học chánh FranklinMcKinley hơn 200 người đã đến tham dự buổi ra mắt cuốn hồi ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng nói về những tháng ngày trong khu chiến ở Thái Lan của tổ chức Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (Đảng Việt Tân ngày nay) vào những năm thập niên 80.
Ông Đỗ Thông Minh, cư ngụ tại Tokyo, Nhật Bản, người đã xuất bản cuốn sách này đã thay mặt cho tác giả Phạm Hoàng Tùng trả lời những câu hỏi của người tham dự. Đỗ Thông Minh là một trong số các sáng lập viên của tổ chức "Người Việt Tự Do" gồm những sinh viên du học tại Nhật Bản và tổ chức này là một thành phần tạo thành "Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam", sau này là Việt Tân, do "phó đề đốc" Hoàng Cơ Minh làm chủ tịch, cho nên được gọi vắn tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, chính thức công bố cương lĩnh chính trị vào năm 1982.
Cuốn hồi ký của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng dày 930 trang chia ra làm 2 tập, được tác giả viết trong vòng 6 năm, hiện đang sống lưu vong tại Nam Vang. Sau khi cuốn sách ra đời, đã tạo ra "sự chấn động" trong dư luận của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Sự thật khủng khiếp qua một cuốn hồi ký:
Đầu những năm 1980, Tùng vượt biên, sống trong trại tạm cư trên đất Thái Lan rồi cùng một số người khác bị dụ dỗ, cưỡng bức vào “khu chiến” tham gia vào tổ chức phản động, khủng bố do Hoàng Cơ Minh cầm đầu.
“Khu chiến” (KC) là dăm mẫu đất rừng Minh thuê ở gần biên giới Thái - Lào. Số thanh niên được lùa từ các trại tạm cư về quá ít, Minh mướn thêm khoảng 100 người Lào đóng vai “kháng chiến quân” (KCQ), sau đó chụp ảnh, quay phim đem về Mỹ, Úc, Canada... nơi có đông người Việt, rồi tuyên truyền thành... 10.000 KCQ ở KC chuẩn bị về “giải phóng quê hương”.
Khu chiến của Hoàng Cơ Minh
Gia đình và đồng bọn của Hoàng Cơ Minh đã kiếm được... vài chục triệu USD nhờ trò bịp bợm này! Để kéo dài trò lừa đảo, thu thêm nhiều tiền (từ việc dụ dỗ và ép buộc bà con Việt kiều) Minh đã chỉ đạo đàn em giết chết hơn chục người có ý định trốn khỏi KC. Chúng thủ tiêu luôn những nhà báo viết bài đặt nghi vấn về chúng tại Mỹ.
Bằng tâm địa độc ác, phiêu lưu, Hoàng Cơ Minh đã nhồi sọ và ép tất cả KCQ xâm nhập về nước phá hoại. Trên con đường “Đông tiến” mịt mù, tội lỗi, các KCQ phải cướp bóc và ăn thịt lẫn nhau để tồn tại.
Tất cả sự thật khủng khiếp này đã được phơi bày qua hồi ký của Phạm Hoàng Tùng - một KCQ đã dại dột vào KC, tham gia “Đông tiến”, chôn vùi tuổi thanh xuân vào con đường đày đọa, khổ đau để bọn cầm đầu nhởn nhơ ở hải ngoại lợi dụng, lừa đảo làm giàu. Đây cũng là bản chất của hầu hết các tổ chức phản động lưu vong hơn 30 năm qua.
Lời tố cáo của người trong cuộc - Phạm Hoàng Tùng - như một quả bom làm nổ tung những cố gắng của đảng Việt Tân - một tổ chức tiếp nối “sự nghiệp” lừa đảo độc ác của Hoàng Cơ Minh hiện vẫn đang tiếp tục trò hề nhố nhăng, quấy rối cộng đồng người Việt ở hải ngoại! Một bí mật tưởng chừng đã bị chôn vùi theo thời gian bất ngờ bùng phát, làm hàng trăm ngàn nạn nhân bị lừa đảo bởi Hoàng Cơ Minh và đồng bọn sục sôi căm giận.
Hoàng Cơ Minh sinh năm 1935, nguyên là thiếu tướng hải quân chế độ Sài Gòn cũ. Ngày 30-4-1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, là lúc Hoàng Cơ Minh cùng các nhóm tàn quân dùng tàu chạy ra biển. Sau đó các sĩ quan cấp tướng trên các tàu được máy bay Mỹ chở đến Guam. Riêng Minh cùng nhiều sĩ quan, binh lính khác đi bằng tàu chở hàng Green Forrest. Và ngay khi xuống tàu đã bị đối xử như... những món hàng đã bị vất đi! (tường thuật của Phan Lạc Tiếp - sĩ quan cấp tá đi chung chuyến tàu với Minh).
Khi sang Mỹ, Minh nhìn các tướng lãnh đàn anh, cấp trên một thời giờ “đổi đời” phải sống trong hụt hẫng, bất lực của cuộc mưu sinh khó khăn trên xứ người, Minh cho như thế là “nhục, hèn” và quyết nghĩ ra trò lừa đảo để tiếp tục được làm... “sếp” và có nhiều tiền cho anh em, gia đình mình.
Thông qua Nguyễn Chí Trung - một quan chức ngoại giao của chế độ Sài Gòn trước đây đã ở lại Thái Lan để mở nhà hàng kinh doanh, Minh cùng một số đối tượng nuôi hận thù dân tộc và âm mưu chống phá đất nước, phá hoại hòa bình vừa có được ở Việt Nam; Minh đến Thái để kiếm đường “làm ăn”.
Trung đã liên hệ thuê được vài mẫu đất rừng giáp biên giới Thái - Lào giao cho Minh thực hiện âm mưu xấu xa này. Trên mảnh rừng đó, Minh thuê người cất vài căn chòi lá đơn sơ để gọi là khu chiến (KC). Tiếp đó, các đàn em của Minh vào trại tạm cư của người Việt trên đất Thái tuyên truyền dụ dỗ rằng: “Những người Việt nếu theo “Mặt trận kháng chiến” (MTKC) của Hoàng Cơ Minh sẽ sớm được định cư ở nước thứ ba”...
Một ít người như Phạm Hoàng Tùng - tác giả của hồi ký kể tội Minh sau này, khi đó do dại dột vì còn quá trẻ và quá bức bối với cảnh sống mòn mỏi ở trại nên đã nhận lời. Sau đó Minh thành lập thêm đảng Việt Tân (ĐVT) tồn tại song song với “mặt trận kháng chiến” và kết nạp các KCQ lần lượt vào đảng.
Sau khi đã chuẩn bị xong “sân khấu”, Minh và đồng bọn bắt đầu diễn trò bịp bợm. Ngày 24-2-1982, “phái đoàn hải ngoại” do Phạm Văn Liễu (nguyên đại tá, chỉ huy trưởng cảnh sát Sài Gòn thời 1965 - 1966), phụ trách tổng vụ hải ngoại của ĐVT và MTKC dụ được nhà báo Hoàng Xuân Yên (Hoàng Xuyên) viết cho tờ Văn Nghệ tiền phong và phóng viên truyền hình CBS Nguyễn Ngọc Ẩn bay qua KC để tuyên truyền về lễ “công bố cương lĩnh chính trị”.
Gần 20 năm sau, cũng chính Phạm Văn Liễu và Hoàng Xuyên đã viết sách “Trả ta sông núi” cùng một loạt bài để vạch mặt trò bịp bợm của băng nhóm Hoàng Cơ Minh và thú tội trước đồng bào hải ngoại vì đã tiếp tay cho bọn lừa đảo (sẽ nói rõ tiếp ở phần sau).
Trước hàng quân là “chiến hữu chủ tịch” Hoàng Cơ Minh đang dõng dạc ban “quân lệnh”. Những hình ảnh hoành tráng như thế nhanh chóng được phổ biến rộng trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại với những lời hứa hẹn: “MTKC đã thống nhất 36 tổ chức trong quốc nội, có hơn 10 ngàn tay súng đang chuẩnbị giành lại chính quyền”...
Hoàng Cơ Minh
Theo chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, chờ cho các mánh lới tuyên truyền phát huy tác dụng, ngấm vào dư luận xong, ngày 16-4-1983, Minh cùng bộ sậu nổi bật trong “thời trang KC” quay về Mỹ và được đồng bọn bày trò đón rước linh đình. Minh đi nhiều nơi để nói chuyện, chiếu phim về KC và KCQ đồng thời khoe khoang đã... bắn chết 6 người về tội phản bội!...
Đám sĩ quan, lính chế độ cũ đang lưu vong ở Mỹ bu theo Minh để dựa hơi, cũng khoác lác, răn đe ầm ĩ. Các anh em ruột của Hoàng Cơ Minh như: Hoàng Cơ Định, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Trường và các tay chân thân tín khác, làm hàng vạn “lon kháng chiến”.
Chúng đặt các lon này vào từng gia đình người Việt, tiệm ăn, phòng mạch bác sĩ, bến xe, cây xăng... để tận thu. Người nào, nhà nào, cơ sở kinh doanh nào không đóng tiền, chúng chụp mũ là “Việt cộng nằm vùng” để bọn đầu trâu mặt ngựa đến gây sự, khủng bố họ.
Hoàng Cơ Định - em ruột Hoàng Cơ Minh - còn lập “biệt đội K9” với danh nghĩa “thanh trừng bọn phản bội” đã giết rất nhiều người như các ký giả Đạm Phong (Báo VNTD ở Houston), vợ chồng Lê Triết (văn nghệ Tiền phong) và các cựu sĩ quan chế độ Sài Gòn như: Phạm Đăng Cường, Lê Yến, tổ chức ám sát Cao Thế Dung, dằn mặt Trần Minh Công...
Bằng những trò khủng bố này, Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã gây ra không khí căng thẳng trong đời sống của cộng đồng người Việt. Ai cũng muốn “thí” cho chúng ít tiền để được yên thân. Chúng đã gom được hàng chục triệu USD từ cách vận động man rợ này, dùng tiền đầu tư mở hàng chục tiệm phở Hòa, lập đội tàu đánh cá, công ty buôn bán gạo... với danh nghĩa “cơ sở kinh tài của KC”, nhưng thực chất chỉ để làm giàu cho gia đình Hoàng Cơ Minh và bọn đầu sỏ.
Từ việc ăn chia tiền bạc không đều, Phạm Văn Liễu tố cáo Hoàng Cơ Định “tham ô”. Để bênh vực em ruột mình, Minh từ KC về lại Mỹ cuối tháng 12-1984 để cách chức Tổng vụ trưởng hải ngoại của Liễu. Liễu phản công bằng cách cùng với Trần Minh Công, Phạm Ngọc Lũy... tuyên bố bất tín nhiệm Minh vì Minh “gia đình trị” và anh em nhà Minh “có vấn đề” về tiền bạc.
Kể từ đó, tổ chức phản động, khủng bố do Hoàng Cơ Minh bị tách làm hai, sau đó còn phân rã thêm nhiều lần nữa. Vào ngày 21-1-2006, Trần Xuân Ninh - một trong những đầu sỏ của ĐVT - đã mở cuộc họp báo lên án, chửi bới Lý Thái Hùng và Nguyễn Kim Hường (hai kẻ tự xưng là “Tổng bí thư”, “Chủ tịch” ĐVT). Hường và Hùng cũng đăng đàn chửi bới lại, bà con Việt kiều theo dõi cuộc “cẩu chiến” này cứ ôm bụng cười vì những bí mật xấu xa trong nội bộ được các vị lôi ra đăng trên báo đài bằng ngôn ngữ không thua gì chợ cá!
Trong hồi ký của mình, Phạm Hoàng Tùng cho biết: Hoàng Cơ Minh mở các đợt “Kháng quản”, “Đông tiến” đưa những nhóm quân ít ỏi với dăm cây súng trường cổ lỗ sĩ xâm nhập về Việt Nam là hành động phiêu lưu, dồn nhiều người vào đường chết. Theo Tùng, Minh làm như vậy vì sức ép của hải ngoại. Tùng viết như vậy vì chưa hiểu hết bản chất của vấn đề, nên nói đúng phần nào, nhưng chưa đủ.
Trong sâu xa, một tướng lĩnh từng cầm quân như Minh thừa biết trên lộ trình xâm nhập sẽ bị đánh chặn quyết liệt; không có tiếp tế, hỗ trợ dọc đường, nếu có may mắn vào được nội địa cũng không biết sẽ làm gì? Dựa vào đâu?... là tự đưa mình vào tử lộ. Nhưng Minh vẫn phải làm? Tại sao?
Do những điều kiện, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, tác động quả lừa của Minh và đồng bọn đã thành công được bước đầu, thu được từ bá tánh rất nhiều tiền. Minh thừa biết trò bịp này sớm muộn gì cũng bị bể, nhất là khi phe cánh Phạm Văn Liễu cũng vì số tiền này quay sang chống lại Minh, cung cấp tài liệu cho một số tờ báo ở Mỹ, Úc... bung ra các bí mật tài chính lem nhem của MTKC và ĐVT, lúc đó anh em nhà Hoàng Cơ chắc chắn sẽ thân bại danh liệt trong nhục nhã ê chề.
Với vai trò cầm đầu, Minh sẽ là người bị pháp luật nước Mỹ tóm cổ trước. Đường nào cũng chết, dĩ nhiên Minh phải chọn cái chết có vẻ “oanh liệt” - chết trên đường “Đông tiến”. Khi đó các anh em và đồng bọn của Minh cứ đổ tất cả cho Minh là xong. Hơn nữa vào thời điểm “Đông tiến”, hợp đồng thuê rừng của Minh đã hết. Có muốn ở lại cũng không xong, vì visa nhập cảnh Thái của Minh và đàn em đã hết hạn.
Diễn biến sau này cho thấy tính toán của Minh là đúng. Minh "tự sát" trên đường “Đông tiến” vào tháng 7-1987, thì 4 năm sau vào ngày 10-4-1991, cảnh sát Mỹ đã bắt các tên cầm đầu ĐVT như: Hoàng Cơ Định và vợ y là Phạm Thị Hà, Nguyễn Kim Hường, Nguyễn Tấn Bính, Phan Duy Cần... vì 26 tội danh liên quan đến gian lận tài chính.
Không chỉ Phạm Hoàng Tùng (tức Lý Định Phát, từng là nạn nhân của nhóm Việt Tân) tố cáo dữ dội trong cuốn hồi ký. Nhiều năm sau, những tên từng viết báo, quay phim "ca ngợi" Hoàng Cơ Minh cũng nói lên sự thật thông qua cuốn sách "Ta trả lại núi sông".
NHỮNG CON CHỐT THÍ
Song song với hồi ký của Phạm Hoàng Tùng, những ngày gần đây, bài trả lời phỏng vấn của Hoàng Xuyên đăng trên các báo tiếng Việt ở hải ngoại cũng được dư luận quan tâm. Tháng 2-1982, Hoàng Xuyên khi ấy đã 64 tuổi, bị Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu dụ dỗ vào “khu chiến” (KC) viết bài ca ngợi cho lực lượng “kháng chiến quân” (KCQ) ở biên thùy Đông Dương.
Chính loạt bài này của Hoàng Xuyên cùng với cuốn phim “Khu chiến” của Nguyễn Ngọc Ẩn khi phổ biến ở hải ngoại đã giúp bọn Hoàng Cơ Minh thực hiện được cú lừa hàng chục triệu USD như đã nói ở trên.
Đến nay, ở tuổi 80, ông Hoàng Xuyên ân hận vô cùng vì đã tiếp tay cho bọn lừa đảo và “bật mí” về bí mật của KC. Theo đó, sau khi thuê được một vạt rừng ở tỉnh Ubon - cách Bangkok 500km về phía Đông Bắc, Minh lập KC dựng lên vài căn nhà lụp xụp bằng tre nứa. Với khoảng 40 thanh niên bị dụ dỗ, cưỡng bức từ các trại tạm cư trên đất Thái và từ nước ngoài về đây, Minh gọi là KCQ. “Đoàn hải ngoại” do Phạm Văn Liễu dẫn đến, Minh bố trí cho đi đường lòng vòng trong rừng mất hai ngày cho có vẻ là căn cứ nằm trong rừng sâu heo hút. Thật ra nó chỉ cách một thị trấn biên giới của Thái khoảng... 7km đường chim bay. Điều này bị phát hiện trong chuyến về của đoàn, chỉ đi bộ chưa đến 2 giờ. Lúc làm lễ công bố “cương lĩnh”, Minh phải thuê thêm 100 người Lào sống gần đó, mặc bà ba đen, khăn rằn đóng vai KCQ để quay phim, chụp ảnh. Minh thét vào micro: “Trung đoàn 45 xung kích, Tiểu đoàn pháo binh 27, Đại đội thám báo 36... (tất cả đều là những phiên hiệu 9 nút cho hên) vào nơi hành lễ”... Đám người lù khù vác mấy cây súng săn, súng trường cổ lỗ sĩ (mà Minh móc nối mua lại của bọn tội phạm hoặc ngoài chợ trời mang về) đi tới đi lui đó, được Minh phóng đại lên thành “trung đoàn”, “tiểu đoàn” mà không ngượng mồm. Ông Liễu đứng gần ông Xuyên nói: “Ông làm bộ lên tuyên bố đoàn hải ngoại ủng hộ 2.000USD để làm cò mồi cho khí thế!”. Ông Xuyên nghe lời. Vừa lễ xong, Minh quay lại bảo ông Xuyên: “2.000USD ông hứa ủng hộ đâu?”. Ông Xuyên giải thích: “Tôi chỉ làm theo lời ông Liễu thôi chứ làm gì có tiền bạc!”. Từ lúc đó, Minh hết xởi lởi vồn vã; nhìn ông Xuyên với cặp mắt... lạnh lùng. Trở về Mỹ, ông Xuyên lại càng kinh ngạc khi trên tờ báo của băng nhóm Hoàng Cơ Minh đăng những tin bài về những trận đánh dữ dội của 10.000 KCQ, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn đối phương diễn ra trong những ngày ông Xuyên đang ở KC. Chưa hết kinh hãi vì kiểu đưa tin láo toét như thế, ông Xuyên đã bị đám lâu la của Minh ở Mỹ hăm dọa: “Phải viết bài tuyên truyền tốt để người ta đóng góp tiền bạc cho kháng chiến. Không làm đúng yêu cầu này coi như ông là... tay sai của Cộng sản”. Ông Xuyên đành thực hiện theo chỉ đạo của chúng và phải chờ hơn 20 năm sau mới dám nói lên sự thật.
Trong hồi ký của Phạm Hoàng Tùng cũng có những sự thật tương tự. Nhưng với hơn 3 năm trong KC, cũng như tham gia “Đông tiến” (từ tháng 2-1984 đến tháng 7-1987), Tùng còn nắm được nhiều bí mật ghê rợn, tệ hại hơn. Từ trại tạm cư Si Khiu, Tùng cùng vài thanh niên người Việt khác ngồi trong xe chở rác để ra KC. Với hàng chục triệu USD lừa đảo được của hàng trăm ngàn bà con Việt kiều, Minh trích ra một ít để nuôi lực lượng KCQ lúc này khoảng hơn 100 người, mỗi ngày ba bữa cơm cá khô, ngủ trong chòi lá. Minh kêu gọi đám đàn em phải sống tiết kiệm, kham khổ. Minh dựng kịch nhặt áo thun rách bên suối giặt rồi mặc lại để thêm phần thuyết phục. Trong khi đó Minh và đám đầu sỏ với danh nghĩa “đi công tác” ở Bangkok, Tokyo, Hoa Kỳ... tha hồ ăn chơi phè phỡn. Ngoài những bữa ăn tập thể đạm bạc, thiếu thốn, bọn đầu sỏ trong KC thường lén lút “ăn vụng” nhiều món ngon mua từ chợ Thái vào. Trong huấn luyện, chỉ có mấy cây súng cũ mèm, KCQ phải chặt cây rừng làm vũ khí. Ngoài tư tưởng chống phá đất nước, Minh giao cho Trần Khánh nhồi sọ KCQ tư tưởng giết người không ghê tay theo kiểu Hitler. Trong thời gian ở KC, cũng như trên đường “Đông tiến”, nhóm sát thủ dưới tay Minh đã giết chết 18 đồng đội chỉ vì những lý do vớ vẩn, hoặc khi họ bị thương gây cản trở cho đội hình di hành. Để tiết kiệm đạn, bọn sát thủ đã bóp cổ nạn nhân cho đến chết. Ngay Lê Hồng (Đặng Quốc Hiền) được phong chức “Tư lệnh lực lượng võ trang” cũng bị Minh thủ tiêu chỉ sau một lần tranh cãi. Bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều cũng bị dụ từ trại tạm cư vào KC, sau đó bị “án tử hình” vì dám nêu một câu hỏi: “Nếu chủ tịch (Hoàng Cơ Minh) gặp chuyện không may, ai sẽ là người thay thế?”. Được huấn luyện trong môi trường tàn bạo, sắt máu như vậy, nên một số KCQ phát sinh tâm địa man rợ. Phạm Hoàng Tùng kể: “Trên đường di hành Đông tiến, lần hai (2-1987), các KCQ quá đói khát đã giành giật nhau từng nắm cơm của người vừa chết, cướp bóc của dân Lào... (và nhiều trò ghê rợn). Khi bị bắt, di lý về trại giam Xuân Phước - Phú Yên, các KCQ đã đánh nhau để giành một miếng cơm cháy”... Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một đội quân nào, kể cả phường thảo khấu mà tính thú lại trội hơn tính người ở mức kinh khủng như thế! Cũng vì tội ác này, gần đây trên báo chí người Việt ở hải ngoại, những “chiến hữu” của Minh đã không tiếc lời nhục mạ và gọi y là “thiên cổ tội nhân”!
Minh còn tỏ ra điên loạn khi chế ra một thứ lịch quái gở, áp đặt trong KC. Mỗi tháng có 4 tuần lễ được Minh chia làm 3 “chu kỳ”, mỗi “chu kỳ” không có thứ 2, thứ 3, thứ 4... chủ nhật; mà là các ngày: Anh Dũng - Bắc Bình - Cải Cách - Duy Tân - Đống Đa - E Dè - Gay Go - Hồng Hà - Im Lặng. Đây là cách để Minh thủ tiêu ý niệm về thời gian trong những người đã bước chân vào KC. Cộng thêm chế độ 5 không: “không nghe, không biết, không nói, không thấy, không hỏi”, Minh đã biến cái gọi là KC thành một địa ngục, biến những con người sống trong đó thành những cỗ máy không còn suy nghĩ, tình cảm, ý thức về thời gian.... Vì vậy những kẻ đã qua “lò” này trở nên hung ác, man rợ cũng là chuyện dễ hiểu.
Những người đã trót theo Minh, từ cấp lớn đến cấp nhỏ đều là “chốt thí” cho Minh và anh em nhà Hoàng Cơ thực hiện mục tiêu kiếm tiền, kiếm danh. Trong sách “Trả ta sông núi”, Phạm Văn Liễu đã trích dẫn một bức thư Minh gửi cho Liễu: “Khi chúng ta xong việc, những người như thế (các KCQ và những người yểm trợ KC ở hải ngoại) chỉ là đồ bỏ đi!”. Đó cũng là lời giải thích cho những kế hoạch phi chính nghĩa, phiêu lưu tuyệt vọng. Phạm Hoàng Tùng viết trong hồi ký rằng: năm 1985, Minh tổ chức hai chuyến xâm nhập về nước qua đường bộ Campuchia, mỗi chuyến có 7 - 9 người! Khi về đến Phnôm Pênh thì tất cả đều bị bắt. Cuối năm đó, Minh mở “Đông tiến 1”, gồm 40 tên xâm nhập qua đường Lào. Bộ đội Lào đã tiêu diệt hơn một nửa quân xâm nhập, số còn lại lần lượt chết trong rừng vì đói khát, bệnh tật, thú dữ. Trước những thất bại như thế, Minh cay cú dốc vốn liếng đánh ván bài chót. Tháng 9-1986, Minh ra lệnh phá hủy hết doanh trại, gọi chủ rừng đến trả đất rồi xua hết 100 người đang có mặt trong KC vào cuộc phiêu lưu “Đông tiến 2 lần 1”. Nhưng khi chuẩn bị vượt sông Mekong, do một số đối tượng trong đoàn tràn vào làng chài ven sông cướp bóc nên bị người trong làng phát hiện, truy đuổi. Minh khiếp sợ dẫn quân chạy ngược lại đất Thái. Song do đất rừng đã trả, sào huyệt đã bị phá bỏ nên cả đoàn hơn 100 người phải sống “lậu” quanh quẩn trong khu rừng KC cũ. Lúc này họ sợ cả người Thái nên phải di chuyển liên tục và giấu mình trong các hang đá, bụi cây. Cuộc sống tạm bợ, vất vưởng thiếu ăn, thiếu mặc như thế kéo dài gần một năm. Đến tháng 7-1987, trong tình thế đường cùng, Minh lại kéo đoàn người “chốt thí” vào trò liều mạng cuối cùng. Trong 6 tuần lễ di hành, sau khi qua được sông Mekong, đoàn phỉ ô hợp này đã bị bộ đội Lào chặn đánh quyết liệt. Lớp chết, lớp bị thương, lớp tan hàng bỏ trốn. Minh ra lệnh giết hết những người bị thương, những người bị nghi là phản bội, bỏ trốn. Có người bị bắn, người thì nhận một mũi thuốc độc, hoặc bị xiết cổ...
Đói khát, đau khổ, sợ hãi, tuyệt vọng bao trùm đoàn người rách nát tơi tả và ngày càng teo tóp về số lượng. Hoàng Cơ Minh bị thương, biết đã cùng đường nên tự sát, một số tên đầu sỏ khác bắt chước theo.... Số còn sống, mạnh ai nấy chạy, lớp chết trong rừng sâu vì thương tật, suy kiệt, lớp bị bộ đội Lào bắt giữ, giao cho phía Việt Nam. Phạm Hoàng Tùng chung số phận với nhóm phỉ trên. Khi đang thụ án tù ở Phú Yên, Tùng trốn trại vào năm 1993 sang CPC sống vất vưởng ngoài vòng pháp luật. Năm 2006, Tùng vì quá phẫn uất với sự lừa đảo của Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã cướp hết tuổi thanh xuân của anh ta và các bạn bè khác nên đã viết hồi ký kể tội chúng. Với chủ tâm lừa đảo, đảng Việt Tân (ĐVT) vẫn giữ bí mật về cái chết của Hoàng Cơ Minh suốt 14 năm sau đó. Mãi đến 28-7-2001, Nguyễn Kim Hườn - Chủ tịch ĐVT - mới cho công bố sự thật này và... “xin lỗi đồng bào” vì đã nói dối suốt 14 năm qua rằng: “Ông Minh vẫn sống và đang hoạt động ở quốc nội”! Cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã vô cùng phẫn nộ, ghê tởm khi biết được bản chất bịp bợm, xảo quyệt, khủng bố, man rợ của ĐVT khi những sự thật trên được phanh phui trên báo, đài. Ngay những kẻ cùng “chiến tuyến chống cộng”, thậm chí trong nội bộ ĐVT đã cho phát tán nhiều tài liệu tố cáo, chửi bới Hoàng Cơ Minh và đồng bọn. Các phe nhóm này cũng đã từng kiện nhau ra tòa án Mỹ về vụ này. Từ hơn 10 năm trước, báo chí ở Mỹ đã gọi “mặt trận kháng chiến” của Hoàng Cơ Minh và ĐVT là “mặt trận phở bò” (vì đã lừa đảo, kiếm tiền mở 36 tiệm phở Hòa trên đất Mỹ), hoặc “mặt trận khiến chán”.... Một số người đã bị chúng giết chết hoặc giết hụt khi dám công bố những sự thật này. Sau khi hoạt động lén lút theo cách tổ chức của lực lượng khủng bố cực đoan trong xã hội Mỹ được hơn 20 năm, ngày 19-9-2004 bọn đầu sỏ ĐVT chạy qua Berlin (Đức) thuê một điểm họp báo tuyên bố ra hoạt động công khai và sẽ về nắm chính quyền tại Việt Nam vào... một thế kỷ nào đó! Lời tuyên bố này lập tức bị báo chí người Việt hải ngoại chế giễu, mỉa mai cho rằng: “ĐVT đang chuẩn bị một vở diễn mới để giết người và lừa bịp bà con kiếm tiền như những sự thật của tổ chức này vừa được những người trong nội bộ phanh phui!”. Nhưng nên nhớ rằng, trước một trò lừa bịp, người ta chỉ mắc mưu một lần!
“Vụ trưởng vụ quốc nội” Việt Tân Nguyễn Quốc Quân sa lưới:
Nguyễn Quốc Quân bị bắt tại Việt Nam hôm 17/11/2007. Khi bị bắt, Nguyễn Quốc Quân đã trình ra chứng minh của Campuchia, có tên Ly Seng. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra, Ly Seng khai tên thật là Nguyễn Quốc Quân, sinh ngày 20/11/1953 ở Hà Nội. Quân còn có các tên gọi khác là Tuấn Anh; Lê Trung; Chu Cảnh Lâm; Ly Seng… và đây chính là người mà Tổng lãnh sự quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã có công văn gửi Sở Ngoại vụ TPHCM đề nghị giúp đỡ xác định chỗ ở hiện thời của công dân Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Quân, sinh ngày 20/11/1953.
Tại cơ quan điều tra, Quân khai nhận là công dân mang hộ chiếu Hoa Kỳ. Quân là “ủy viên trung ương đảng Việt Tân” giữ chức “vụ trưởng vụ quốc nội” có mật danh là C21, phụ trách phát triển lực lượng trong công nhân viên chức tại Việt Nam và những lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài, nhằm đào tạo và đưa những “nhân viên sạch” này cài cắm sâu vào nội bộ chính quyền để phục vụ cho âm mưu lật đổ chính quyền Việt Nam sau này.
Do giữ chức vụ là ủy viên trung ương của tổ chức “Việt Tân”, Nguyễn Quốc Quân đã đến Campuchia bí mật thành lập “cơ sở kinh tài” để chứa chấp những phần tử khủng bố và tổ chức làm giấy tờ giả nhằm hợp thức hóa việc đưa người xâm nhập vào Việt Nam của tổ chức “Việt Tân”.
Do Nguyễn Quốc Quân muốn làm gương cho những thuộc cấp nên y đã tự làm giả cho mình một giấy CMND mang tên Ly Seng, quốc tịch Campuchia để xâm nhập vào Việt Nam bằng đường bộ qua biên giới Việt Nam-Campuchia.
Trên đường đi Nguyễn Quốc Quân đã ghi lại toàn bộ lịch trình lẫn hành trình, cũng như trạm kiểm soát của Campuchia và Việt Nam để làm lộ trình chính thức cho đồng bọn xâm nhập vào Việt Nam sau này. Nguyễn Quốc Quân cũng khai rõ, chuyến xâm nhập này ngoài việc thiết lập đường dây xâm nhập cho đồng bọn, Quân cũng muốn kiểm tra thực tế hoạt động nội địa của tổ chức “Việt Tân”, và tìm hiểu rõ vì sao mỗi năm tổ chức này chỉ phát triển thêm được một vài hội viên (?).
Cũng từ lời khai nhận của Nguyễn Quốc Quân, nhiều cơ sở của tổ chức “Việt Tân” nằm vùng tại Việt Nam đã bị lực lượng an ninh kiểm soát, phá rã.
Dùng Thái Lan làm địa bàn để xâm nhập, chống phá đất nước:
Như vậy, Quân chính là cấp trên của 6 đối tượng vừa bị bắt quả tang khi đang tổ chức phát tán truyền đơn, tài liệu xuyên tạc, chống phá nhà nước Việt Nam. Trong đó có Nguyễn Thị Thanh Vân (sinh năm 1956, quốc tịch Pháp); Trương Leon (còn có tên gọi khác là Trương Văn Sỹ, sinh năm 1953, quốc tịch Mỹ); Lương Ngọc Bang (tên gọi khác là SomSak, sinh năm 1940, quốc tịch Thái Lan).
Việt Tân là tổ chức khủng bố được Hoàng Cơ Minh, nguyên chuẩn tướng, phó đề đốc hải quân ngụy lập ra năm 1982. Tổ chức này có tiền thân là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”, Bọn phản động ở Thái Lan đã từng cung cấp lương thực, vũ khí cho Việt Tân. với hiến chương và cương lĩnh chính trị nhằm mục tiêu lật đổ chế độ XHCN Việt Nam.
Xét xử và trục xuất:
Chiều 17/5, cơ quan chức năng Việt Nam đã tiến hành các thủ tục trục xuất Nguyễn Quốc Quân, Việt kiều Mỹ, “uỷ viên trung ương” của tổ chức khủng bố Việt Tân, sau khi Quân mãn hạn 6 tháng tù vì đã xâm nhập Việt Nam trái phép bằng giấy tờ giả để tiến hành âm mưu khủng bố.
Việc trục xuất Quân được thực hiện trước sự chứng kiến của đại diện Lãnh sự quán Mỹ tại TP.HCM.
Trước đó, như đã nói ở trên, vào ngày 17/11/2007, để thực hiện cái gọi là”kế hoạch sang sông” do bọn cầm đầu Việt Tân vạch ra, Nguyễn Quốc Quân đã sử dụng một căn cước Cămpuchia giả mạo mang tên Ly Seng, xâm nhập trái phép vào Việt Nam, phối hợp cùng Nguyễn Thị Thanh Vân (Việt kiều Pháp), Trương Văn Sỹ (Việt kiều Mỹ), Nguyễn Hải (Việt kiều Thái Lan) và Nguyễn Thế Vũ cư trú tại TP.HCM nhằm tiến hành âm mưu khủng bố. Tuy nhiên, cả bọn đã bị cơ quan an ninh Việt Nam bắt quả tang cùng với nhiều tang vật phạm pháp.
Sau đó, Nguyễn Thị Thanh Vân, Trương Văn Sỹ đã viết bản tự khai, thú nhận tội lỗi, xin được khoan hồng và đã bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Vào ngày 13-5, TAND TPHCM đã tuyên phạt án sơ thẩm đối với ba bị cáo phạm tội “khủng bố” theo khoản 3, điều 84 Bộ Luật Hình sự, gồm:
Nguyễn Quốc Quân (SN 1953, Việt kiều Mỹ) 6 tháng tù giam và trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù; Nguyễn Hải (SN 1951, tên gọi khác Khunmi Somsak, Nguyễn Quang Phục, sống tại Thái Lan, quốc tịch Việt Nam) 9 tháng tù giam và buộc quản chế tại địa phương trong 3 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù; Nguyễn Thế Vũ (SN 1977, quê Bình Thuận, ngụ quận 11-TPHCM) 5 tháng 26 ngày tù giam (bị cáo được thả tự do ngay tại tòa do đã chấp hành xong hình phạt tù), áp dụng hình phạt bổ sung buộc quản chế tại địa phương trong 1 năm.
Theo Hội đồng Xét xử, cả ba bị cáo tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, bày tỏ sự ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi sai trái. Bị cáo Nguyễn Quốc Quân thừa nhận tham gia điều hành và gây quỹ cho tổ chức khủng bố “Việt Tân” và xâm nhập vào Việt Nam thực hiện âm mưu khủng bố.
Trước khi ra sân bay, Nguyễn Quốc Quân đã cảm ơn cơ quan chức năng Việt Nam đã đối xử rất khoan hồng, nhân đạo trong suốt thời gian bị giam giữ, cũng như nhìn nhận hành vi vi phạm luật pháp Việt Nam của mình.
Từ 1980 đến nay, Việt Tân đã liên tiếp bị đập tan các âm mưu chống phá nhà nước Việt Nam, cho dù chúng được hỗ trợ đắc lực của các tổ chức phản động ở nước ngoài, nhưng sự thật đã chỉ ra rằng: VIỆT TÂN ĐẶT CHÂN ĐẾN VIỆT NAM LÀ BỊ TIÊU DIỆT.
1 nhận xét:
Trưa thứ bảy 30-9-06 tại khu học chánh FranklinMcKinley hơn 200 người đã đến tham dự buổi ra mắt cuốn hồi ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng nói về những tháng ngày trong khu chiến ở Thái Lan của tổ chức Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (Đảng Việt Tân ngày nay) vào những năm thập niên 80.
Ông Đỗ Thông Minh, cư ngụ tại Tokyo, Nhật Bản, người đã xuất bản cuốn sách này đã thay mặt cho tác giả Phạm Hoàng Tùng trả lời những câu hỏi của người tham dự. Đỗ Thông Minh là một trong số các sáng lập viên của tổ chức "Người Việt Tự Do" gồm những sinh viên du học tại Nhật Bản và tổ chức này là một thành phần tạo thành "Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam", sau này là Việt Tân, do "phó đề đốc" Hoàng Cơ Minh làm chủ tịch, cho nên được gọi vắn tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, chính thức công bố cương lĩnh chính trị vào năm 1982.
Cuốn hồi ký của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng dày 930 trang chia ra làm 2 tập, được tác giả viết trong vòng 6 năm, hiện đang sống lưu vong tại Nam Vang. Sau khi cuốn sách ra đời, đã tạo ra "sự chấn động" trong dư luận của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Sự thật khủng khiếp qua một cuốn hồi ký:
Đầu những năm 1980, Tùng vượt biên, sống trong trại tạm cư trên đất Thái Lan rồi cùng một số người khác bị dụ dỗ, cưỡng bức vào “khu chiến” tham gia vào tổ chức phản động, khủng bố do Hoàng Cơ Minh cầm đầu.
“Khu chiến” (KC) là dăm mẫu đất rừng Minh thuê ở gần biên giới Thái - Lào. Số thanh niên được lùa từ các trại tạm cư về quá ít, Minh mướn thêm khoảng 100 người Lào đóng vai “kháng chiến quân” (KCQ), sau đó chụp ảnh, quay phim đem về Mỹ, Úc, Canada... nơi có đông người Việt, rồi tuyên truyền thành... 10.000 KCQ ở KC chuẩn bị về “giải phóng quê hương”.
Khu chiến của Hoàng Cơ Minh
Gia đình và đồng bọn của Hoàng Cơ Minh đã kiếm được... vài chục triệu USD nhờ trò bịp bợm này! Để kéo dài trò lừa đảo, thu thêm nhiều tiền (từ việc dụ dỗ và ép buộc bà con Việt kiều) Minh đã chỉ đạo đàn em giết chết hơn chục người có ý định trốn khỏi KC. Chúng thủ tiêu luôn những nhà báo viết bài đặt nghi vấn về chúng tại Mỹ.
Bằng tâm địa độc ác, phiêu lưu, Hoàng Cơ Minh đã nhồi sọ và ép tất cả KCQ xâm nhập về nước phá hoại. Trên con đường “Đông tiến” mịt mù, tội lỗi, các KCQ phải cướp bóc và ăn thịt lẫn nhau để tồn tại.
Tất cả sự thật khủng khiếp này đã được phơi bày qua hồi ký của Phạm Hoàng Tùng - một KCQ đã dại dột vào KC, tham gia “Đông tiến”, chôn vùi tuổi thanh xuân vào con đường đày đọa, khổ đau để bọn cầm đầu nhởn nhơ ở hải ngoại lợi dụng, lừa đảo làm giàu. Đây cũng là bản chất của hầu hết các tổ chức phản động lưu vong hơn 30 năm qua.
Lời tố cáo của người trong cuộc - Phạm Hoàng Tùng - như một quả bom làm nổ tung những cố gắng của đảng Việt Tân - một tổ chức tiếp nối “sự nghiệp” lừa đảo độc ác của Hoàng Cơ Minh hiện vẫn đang tiếp tục trò hề nhố nhăng, quấy rối cộng đồng người Việt ở hải ngoại! Một bí mật tưởng chừng đã bị chôn vùi theo thời gian bất ngờ bùng phát, làm hàng trăm ngàn nạn nhân bị lừa đảo bởi Hoàng Cơ Minh và đồng bọn sục sôi căm giận.
Hoàng Cơ Minh sinh năm 1935, nguyên là thiếu tướng hải quân chế độ Sài Gòn cũ. Ngày 30-4-1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, là lúc Hoàng Cơ Minh cùng các nhóm tàn quân dùng tàu chạy ra biển. Sau đó các sĩ quan cấp tướng trên các tàu được máy bay Mỹ chở đến Guam. Riêng Minh cùng nhiều sĩ quan, binh lính khác đi bằng tàu chở hàng Green Forrest. Và ngay khi xuống tàu đã bị đối xử như... những món hàng đã bị vất đi! (tường thuật của Phan Lạc Tiếp - sĩ quan cấp tá đi chung chuyến tàu với Minh).
Khi sang Mỹ, Minh nhìn các tướng lãnh đàn anh, cấp trên một thời giờ “đổi đời” phải sống trong hụt hẫng, bất lực của cuộc mưu sinh khó khăn trên xứ người, Minh cho như thế là “nhục, hèn” và quyết nghĩ ra trò lừa đảo để tiếp tục được làm... “sếp” và có nhiều tiền cho anh em, gia đình mình.
Thông qua Nguyễn Chí Trung - một quan chức ngoại giao của chế độ Sài Gòn trước đây đã ở lại Thái Lan để mở nhà hàng kinh doanh, Minh cùng một số đối tượng nuôi hận thù dân tộc và âm mưu chống phá đất nước, phá hoại hòa bình vừa có được ở Việt Nam; Minh đến Thái để kiếm đường “làm ăn”.
Trung đã liên hệ thuê được vài mẫu đất rừng giáp biên giới Thái - Lào giao cho Minh thực hiện âm mưu xấu xa này. Trên mảnh rừng đó, Minh thuê người cất vài căn chòi lá đơn sơ để gọi là khu chiến (KC). Tiếp đó, các đàn em của Minh vào trại tạm cư của người Việt trên đất Thái tuyên truyền dụ dỗ rằng: “Những người Việt nếu theo “Mặt trận kháng chiến” (MTKC) của Hoàng Cơ Minh sẽ sớm được định cư ở nước thứ ba”...
Một ít người như Phạm Hoàng Tùng - tác giả của hồi ký kể tội Minh sau này, khi đó do dại dột vì còn quá trẻ và quá bức bối với cảnh sống mòn mỏi ở trại nên đã nhận lời. Sau đó Minh thành lập thêm đảng Việt Tân (ĐVT) tồn tại song song với “mặt trận kháng chiến” và kết nạp các KCQ lần lượt vào đảng.
Sau khi đã chuẩn bị xong “sân khấu”, Minh và đồng bọn bắt đầu diễn trò bịp bợm. Ngày 24-2-1982, “phái đoàn hải ngoại” do Phạm Văn Liễu (nguyên đại tá, chỉ huy trưởng cảnh sát Sài Gòn thời 1965 - 1966), phụ trách tổng vụ hải ngoại của ĐVT và MTKC dụ được nhà báo Hoàng Xuân Yên (Hoàng Xuyên) viết cho tờ Văn Nghệ tiền phong và phóng viên truyền hình CBS Nguyễn Ngọc Ẩn bay qua KC để tuyên truyền về lễ “công bố cương lĩnh chính trị”.
Gần 20 năm sau, cũng chính Phạm Văn Liễu và Hoàng Xuyên đã viết sách “Trả ta sông núi” cùng một loạt bài để vạch mặt trò bịp bợm của băng nhóm Hoàng Cơ Minh và thú tội trước đồng bào hải ngoại vì đã tiếp tay cho bọn lừa đảo (sẽ nói rõ tiếp ở phần sau).
Trước hàng quân là “chiến hữu chủ tịch” Hoàng Cơ Minh đang dõng dạc ban “quân lệnh”. Những hình ảnh hoành tráng như thế nhanh chóng được phổ biến rộng trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại với những lời hứa hẹn: “MTKC đã thống nhất 36 tổ chức trong quốc nội, có hơn 10 ngàn tay súng đang chuẩnbị giành lại chính quyền”...
Hoàng Cơ Minh
Theo chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, chờ cho các mánh lới tuyên truyền phát huy tác dụng, ngấm vào dư luận xong, ngày 16-4-1983, Minh cùng bộ sậu nổi bật trong “thời trang KC” quay về Mỹ và được đồng bọn bày trò đón rước linh đình. Minh đi nhiều nơi để nói chuyện, chiếu phim về KC và KCQ đồng thời khoe khoang đã... bắn chết 6 người về tội phản bội!...
Đám sĩ quan, lính chế độ cũ đang lưu vong ở Mỹ bu theo Minh để dựa hơi, cũng khoác lác, răn đe ầm ĩ. Các anh em ruột của Hoàng Cơ Minh như: Hoàng Cơ Định, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Trường và các tay chân thân tín khác, làm hàng vạn “lon kháng chiến”.
Chúng đặt các lon này vào từng gia đình người Việt, tiệm ăn, phòng mạch bác sĩ, bến xe, cây xăng... để tận thu. Người nào, nhà nào, cơ sở kinh doanh nào không đóng tiền, chúng chụp mũ là “Việt cộng nằm vùng” để bọn đầu trâu mặt ngựa đến gây sự, khủng bố họ.
Hoàng Cơ Định - em ruột Hoàng Cơ Minh - còn lập “biệt đội K9” với danh nghĩa “thanh trừng bọn phản bội” đã giết rất nhiều người như các ký giả Đạm Phong (Báo VNTD ở Houston), vợ chồng Lê Triết (văn nghệ Tiền phong) và các cựu sĩ quan chế độ Sài Gòn như: Phạm Đăng Cường, Lê Yến, tổ chức ám sát Cao Thế Dung, dằn mặt Trần Minh Công...
Bằng những trò khủng bố này, Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã gây ra không khí căng thẳng trong đời sống của cộng đồng người Việt. Ai cũng muốn “thí” cho chúng ít tiền để được yên thân. Chúng đã gom được hàng chục triệu USD từ cách vận động man rợ này, dùng tiền đầu tư mở hàng chục tiệm phở Hòa, lập đội tàu đánh cá, công ty buôn bán gạo... với danh nghĩa “cơ sở kinh tài của KC”, nhưng thực chất chỉ để làm giàu cho gia đình Hoàng Cơ Minh và bọn đầu sỏ.
Từ việc ăn chia tiền bạc không đều, Phạm Văn Liễu tố cáo Hoàng Cơ Định “tham ô”. Để bênh vực em ruột mình, Minh từ KC về lại Mỹ cuối tháng 12-1984 để cách chức Tổng vụ trưởng hải ngoại của Liễu. Liễu phản công bằng cách cùng với Trần Minh Công, Phạm Ngọc Lũy... tuyên bố bất tín nhiệm Minh vì Minh “gia đình trị” và anh em nhà Minh “có vấn đề” về tiền bạc.
Kể từ đó, tổ chức phản động, khủng bố do Hoàng Cơ Minh bị tách làm hai, sau đó còn phân rã thêm nhiều lần nữa. Vào ngày 21-1-2006, Trần Xuân Ninh - một trong những đầu sỏ của ĐVT - đã mở cuộc họp báo lên án, chửi bới Lý Thái Hùng và Nguyễn Kim Hường (hai kẻ tự xưng là “Tổng bí thư”, “Chủ tịch” ĐVT). Hường và Hùng cũng đăng đàn chửi bới lại, bà con Việt kiều theo dõi cuộc “cẩu chiến” này cứ ôm bụng cười vì những bí mật xấu xa trong nội bộ được các vị lôi ra đăng trên báo đài bằng ngôn ngữ không thua gì chợ cá!
Trong hồi ký của mình, Phạm Hoàng Tùng cho biết: Hoàng Cơ Minh mở các đợt “Kháng quản”, “Đông tiến” đưa những nhóm quân ít ỏi với dăm cây súng trường cổ lỗ sĩ xâm nhập về Việt Nam là hành động phiêu lưu, dồn nhiều người vào đường chết. Theo Tùng, Minh làm như vậy vì sức ép của hải ngoại. Tùng viết như vậy vì chưa hiểu hết bản chất của vấn đề, nên nói đúng phần nào, nhưng chưa đủ.
Trong sâu xa, một tướng lĩnh từng cầm quân như Minh thừa biết trên lộ trình xâm nhập sẽ bị đánh chặn quyết liệt; không có tiếp tế, hỗ trợ dọc đường, nếu có may mắn vào được nội địa cũng không biết sẽ làm gì? Dựa vào đâu?... là tự đưa mình vào tử lộ. Nhưng Minh vẫn phải làm? Tại sao?
Do những điều kiện, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, tác động quả lừa của Minh và đồng bọn đã thành công được bước đầu, thu được từ bá tánh rất nhiều tiền. Minh thừa biết trò bịp này sớm muộn gì cũng bị bể, nhất là khi phe cánh Phạm Văn Liễu cũng vì số tiền này quay sang chống lại Minh, cung cấp tài liệu cho một số tờ báo ở Mỹ, Úc... bung ra các bí mật tài chính lem nhem của MTKC và ĐVT, lúc đó anh em nhà Hoàng Cơ chắc chắn sẽ thân bại danh liệt trong nhục nhã ê chề.
Với vai trò cầm đầu, Minh sẽ là người bị pháp luật nước Mỹ tóm cổ trước. Đường nào cũng chết, dĩ nhiên Minh phải chọn cái chết có vẻ “oanh liệt” - chết trên đường “Đông tiến”. Khi đó các anh em và đồng bọn của Minh cứ đổ tất cả cho Minh là xong. Hơn nữa vào thời điểm “Đông tiến”, hợp đồng thuê rừng của Minh đã hết. Có muốn ở lại cũng không xong, vì visa nhập cảnh Thái của Minh và đàn em đã hết hạn.
Diễn biến sau này cho thấy tính toán của Minh là đúng. Minh "tự sát" trên đường “Đông tiến” vào tháng 7-1987, thì 4 năm sau vào ngày 10-4-1991, cảnh sát Mỹ đã bắt các tên cầm đầu ĐVT như: Hoàng Cơ Định và vợ y là Phạm Thị Hà, Nguyễn Kim Hường, Nguyễn Tấn Bính, Phan Duy Cần... vì 26 tội danh liên quan đến gian lận tài chính.
Không chỉ Phạm Hoàng Tùng (tức Lý Định Phát, từng là nạn nhân của nhóm Việt Tân) tố cáo dữ dội trong cuốn hồi ký. Nhiều năm sau, những tên từng viết báo, quay phim "ca ngợi" Hoàng Cơ Minh cũng nói lên sự thật thông qua cuốn sách "Ta trả lại núi sông".
NHỮNG CON CHỐT THÍ
Song song với hồi ký của Phạm Hoàng Tùng, những ngày gần đây, bài trả lời phỏng vấn của Hoàng Xuyên đăng trên các báo tiếng Việt ở hải ngoại cũng được dư luận quan tâm. Tháng 2-1982, Hoàng Xuyên khi ấy đã 64 tuổi, bị Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu dụ dỗ vào “khu chiến” (KC) viết bài ca ngợi cho lực lượng “kháng chiến quân” (KCQ) ở biên thùy Đông Dương.
Chính loạt bài này của Hoàng Xuyên cùng với cuốn phim “Khu chiến” của Nguyễn Ngọc Ẩn khi phổ biến ở hải ngoại đã giúp bọn Hoàng Cơ Minh thực hiện được cú lừa hàng chục triệu USD như đã nói ở trên.
Đến nay, ở tuổi 80, ông Hoàng Xuyên ân hận vô cùng vì đã tiếp tay cho bọn lừa đảo và “bật mí” về bí mật của KC. Theo đó, sau khi thuê được một vạt rừng ở tỉnh Ubon - cách Bangkok 500km về phía Đông Bắc, Minh lập KC dựng lên vài căn nhà lụp xụp bằng tre nứa. Với khoảng 40 thanh niên bị dụ dỗ, cưỡng bức từ các trại tạm cư trên đất Thái và từ nước ngoài về đây, Minh gọi là KCQ. “Đoàn hải ngoại” do Phạm Văn Liễu dẫn đến, Minh bố trí cho đi đường lòng vòng trong rừng mất hai ngày cho có vẻ là căn cứ nằm trong rừng sâu heo hút. Thật ra nó chỉ cách một thị trấn biên giới của Thái khoảng... 7km đường chim bay. Điều này bị phát hiện trong chuyến về của đoàn, chỉ đi bộ chưa đến 2 giờ. Lúc làm lễ công bố “cương lĩnh”, Minh phải thuê thêm 100 người Lào sống gần đó, mặc bà ba đen, khăn rằn đóng vai KCQ để quay phim, chụp ảnh. Minh thét vào micro: “Trung đoàn 45 xung kích, Tiểu đoàn pháo binh 27, Đại đội thám báo 36... (tất cả đều là những phiên hiệu 9 nút cho hên) vào nơi hành lễ”... Đám người lù khù vác mấy cây súng săn, súng trường cổ lỗ sĩ (mà Minh móc nối mua lại của bọn tội phạm hoặc ngoài chợ trời mang về) đi tới đi lui đó, được Minh phóng đại lên thành “trung đoàn”, “tiểu đoàn” mà không ngượng mồm. Ông Liễu đứng gần ông Xuyên nói: “Ông làm bộ lên tuyên bố đoàn hải ngoại ủng hộ 2.000USD để làm cò mồi cho khí thế!”. Ông Xuyên nghe lời. Vừa lễ xong, Minh quay lại bảo ông Xuyên: “2.000USD ông hứa ủng hộ đâu?”. Ông Xuyên giải thích: “Tôi chỉ làm theo lời ông Liễu thôi chứ làm gì có tiền bạc!”. Từ lúc đó, Minh hết xởi lởi vồn vã; nhìn ông Xuyên với cặp mắt... lạnh lùng. Trở về Mỹ, ông Xuyên lại càng kinh ngạc khi trên tờ báo của băng nhóm Hoàng Cơ Minh đăng những tin bài về những trận đánh dữ dội của 10.000 KCQ, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn đối phương diễn ra trong những ngày ông Xuyên đang ở KC. Chưa hết kinh hãi vì kiểu đưa tin láo toét như thế, ông Xuyên đã bị đám lâu la của Minh ở Mỹ hăm dọa: “Phải viết bài tuyên truyền tốt để người ta đóng góp tiền bạc cho kháng chiến. Không làm đúng yêu cầu này coi như ông là... tay sai của Cộng sản”. Ông Xuyên đành thực hiện theo chỉ đạo của chúng và phải chờ hơn 20 năm sau mới dám nói lên sự thật.
Trong hồi ký của Phạm Hoàng Tùng cũng có những sự thật tương tự. Nhưng với hơn 3 năm trong KC, cũng như tham gia “Đông tiến” (từ tháng 2-1984 đến tháng 7-1987), Tùng còn nắm được nhiều bí mật ghê rợn, tệ hại hơn. Từ trại tạm cư Si Khiu, Tùng cùng vài thanh niên người Việt khác ngồi trong xe chở rác để ra KC. Với hàng chục triệu USD lừa đảo được của hàng trăm ngàn bà con Việt kiều, Minh trích ra một ít để nuôi lực lượng KCQ lúc này khoảng hơn 100 người, mỗi ngày ba bữa cơm cá khô, ngủ trong chòi lá. Minh kêu gọi đám đàn em phải sống tiết kiệm, kham khổ. Minh dựng kịch nhặt áo thun rách bên suối giặt rồi mặc lại để thêm phần thuyết phục. Trong khi đó Minh và đám đầu sỏ với danh nghĩa “đi công tác” ở Bangkok, Tokyo, Hoa Kỳ... tha hồ ăn chơi phè phỡn. Ngoài những bữa ăn tập thể đạm bạc, thiếu thốn, bọn đầu sỏ trong KC thường lén lút “ăn vụng” nhiều món ngon mua từ chợ Thái vào. Trong huấn luyện, chỉ có mấy cây súng cũ mèm, KCQ phải chặt cây rừng làm vũ khí. Ngoài tư tưởng chống phá đất nước, Minh giao cho Trần Khánh nhồi sọ KCQ tư tưởng giết người không ghê tay theo kiểu Hitler. Trong thời gian ở KC, cũng như trên đường “Đông tiến”, nhóm sát thủ dưới tay Minh đã giết chết 18 đồng đội chỉ vì những lý do vớ vẩn, hoặc khi họ bị thương gây cản trở cho đội hình di hành. Để tiết kiệm đạn, bọn sát thủ đã bóp cổ nạn nhân cho đến chết. Ngay Lê Hồng (Đặng Quốc Hiền) được phong chức “Tư lệnh lực lượng võ trang” cũng bị Minh thủ tiêu chỉ sau một lần tranh cãi. Bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều cũng bị dụ từ trại tạm cư vào KC, sau đó bị “án tử hình” vì dám nêu một câu hỏi: “Nếu chủ tịch (Hoàng Cơ Minh) gặp chuyện không may, ai sẽ là người thay thế?”. Được huấn luyện trong môi trường tàn bạo, sắt máu như vậy, nên một số KCQ phát sinh tâm địa man rợ. Phạm Hoàng Tùng kể: “Trên đường di hành Đông tiến, lần hai (2-1987), các KCQ quá đói khát đã giành giật nhau từng nắm cơm của người vừa chết, cướp bóc của dân Lào... (và nhiều trò ghê rợn). Khi bị bắt, di lý về trại giam Xuân Phước - Phú Yên, các KCQ đã đánh nhau để giành một miếng cơm cháy”... Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một đội quân nào, kể cả phường thảo khấu mà tính thú lại trội hơn tính người ở mức kinh khủng như thế! Cũng vì tội ác này, gần đây trên báo chí người Việt ở hải ngoại, những “chiến hữu” của Minh đã không tiếc lời nhục mạ và gọi y là “thiên cổ tội nhân”!
Minh còn tỏ ra điên loạn khi chế ra một thứ lịch quái gở, áp đặt trong KC. Mỗi tháng có 4 tuần lễ được Minh chia làm 3 “chu kỳ”, mỗi “chu kỳ” không có thứ 2, thứ 3, thứ 4... chủ nhật; mà là các ngày: Anh Dũng - Bắc Bình - Cải Cách - Duy Tân - Đống Đa - E Dè - Gay Go - Hồng Hà - Im Lặng. Đây là cách để Minh thủ tiêu ý niệm về thời gian trong những người đã bước chân vào KC. Cộng thêm chế độ 5 không: “không nghe, không biết, không nói, không thấy, không hỏi”, Minh đã biến cái gọi là KC thành một địa ngục, biến những con người sống trong đó thành những cỗ máy không còn suy nghĩ, tình cảm, ý thức về thời gian.... Vì vậy những kẻ đã qua “lò” này trở nên hung ác, man rợ cũng là chuyện dễ hiểu.
Những người đã trót theo Minh, từ cấp lớn đến cấp nhỏ đều là “chốt thí” cho Minh và anh em nhà Hoàng Cơ thực hiện mục tiêu kiếm tiền, kiếm danh. Trong sách “Trả ta sông núi”, Phạm Văn Liễu đã trích dẫn một bức thư Minh gửi cho Liễu: “Khi chúng ta xong việc, những người như thế (các KCQ và những người yểm trợ KC ở hải ngoại) chỉ là đồ bỏ đi!”. Đó cũng là lời giải thích cho những kế hoạch phi chính nghĩa, phiêu lưu tuyệt vọng. Phạm Hoàng Tùng viết trong hồi ký rằng: năm 1985, Minh tổ chức hai chuyến xâm nhập về nước qua đường bộ Campuchia, mỗi chuyến có 7 - 9 người! Khi về đến Phnôm Pênh thì tất cả đều bị bắt. Cuối năm đó, Minh mở “Đông tiến 1”, gồm 40 tên xâm nhập qua đường Lào. Bộ đội Lào đã tiêu diệt hơn một nửa quân xâm nhập, số còn lại lần lượt chết trong rừng vì đói khát, bệnh tật, thú dữ. Trước những thất bại như thế, Minh cay cú dốc vốn liếng đánh ván bài chót. Tháng 9-1986, Minh ra lệnh phá hủy hết doanh trại, gọi chủ rừng đến trả đất rồi xua hết 100 người đang có mặt trong KC vào cuộc phiêu lưu “Đông tiến 2 lần 1”. Nhưng khi chuẩn bị vượt sông Mekong, do một số đối tượng trong đoàn tràn vào làng chài ven sông cướp bóc nên bị người trong làng phát hiện, truy đuổi. Minh khiếp sợ dẫn quân chạy ngược lại đất Thái. Song do đất rừng đã trả, sào huyệt đã bị phá bỏ nên cả đoàn hơn 100 người phải sống “lậu” quanh quẩn trong khu rừng KC cũ. Lúc này họ sợ cả người Thái nên phải di chuyển liên tục và giấu mình trong các hang đá, bụi cây. Cuộc sống tạm bợ, vất vưởng thiếu ăn, thiếu mặc như thế kéo dài gần một năm. Đến tháng 7-1987, trong tình thế đường cùng, Minh lại kéo đoàn người “chốt thí” vào trò liều mạng cuối cùng. Trong 6 tuần lễ di hành, sau khi qua được sông Mekong, đoàn phỉ ô hợp này đã bị bộ đội Lào chặn đánh quyết liệt. Lớp chết, lớp bị thương, lớp tan hàng bỏ trốn. Minh ra lệnh giết hết những người bị thương, những người bị nghi là phản bội, bỏ trốn. Có người bị bắn, người thì nhận một mũi thuốc độc, hoặc bị xiết cổ...
Đói khát, đau khổ, sợ hãi, tuyệt vọng bao trùm đoàn người rách nát tơi tả và ngày càng teo tóp về số lượng. Hoàng Cơ Minh bị thương, biết đã cùng đường nên tự sát, một số tên đầu sỏ khác bắt chước theo.... Số còn sống, mạnh ai nấy chạy, lớp chết trong rừng sâu vì thương tật, suy kiệt, lớp bị bộ đội Lào bắt giữ, giao cho phía Việt Nam. Phạm Hoàng Tùng chung số phận với nhóm phỉ trên. Khi đang thụ án tù ở Phú Yên, Tùng trốn trại vào năm 1993 sang CPC sống vất vưởng ngoài vòng pháp luật. Năm 2006, Tùng vì quá phẫn uất với sự lừa đảo của Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã cướp hết tuổi thanh xuân của anh ta và các bạn bè khác nên đã viết hồi ký kể tội chúng. Với chủ tâm lừa đảo, đảng Việt Tân (ĐVT) vẫn giữ bí mật về cái chết của Hoàng Cơ Minh suốt 14 năm sau đó. Mãi đến 28-7-2001, Nguyễn Kim Hườn - Chủ tịch ĐVT - mới cho công bố sự thật này và... “xin lỗi đồng bào” vì đã nói dối suốt 14 năm qua rằng: “Ông Minh vẫn sống và đang hoạt động ở quốc nội”! Cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã vô cùng phẫn nộ, ghê tởm khi biết được bản chất bịp bợm, xảo quyệt, khủng bố, man rợ của ĐVT khi những sự thật trên được phanh phui trên báo, đài. Ngay những kẻ cùng “chiến tuyến chống cộng”, thậm chí trong nội bộ ĐVT đã cho phát tán nhiều tài liệu tố cáo, chửi bới Hoàng Cơ Minh và đồng bọn. Các phe nhóm này cũng đã từng kiện nhau ra tòa án Mỹ về vụ này. Từ hơn 10 năm trước, báo chí ở Mỹ đã gọi “mặt trận kháng chiến” của Hoàng Cơ Minh và ĐVT là “mặt trận phở bò” (vì đã lừa đảo, kiếm tiền mở 36 tiệm phở Hòa trên đất Mỹ), hoặc “mặt trận khiến chán”.... Một số người đã bị chúng giết chết hoặc giết hụt khi dám công bố những sự thật này. Sau khi hoạt động lén lút theo cách tổ chức của lực lượng khủng bố cực đoan trong xã hội Mỹ được hơn 20 năm, ngày 19-9-2004 bọn đầu sỏ ĐVT chạy qua Berlin (Đức) thuê một điểm họp báo tuyên bố ra hoạt động công khai và sẽ về nắm chính quyền tại Việt Nam vào... một thế kỷ nào đó! Lời tuyên bố này lập tức bị báo chí người Việt hải ngoại chế giễu, mỉa mai cho rằng: “ĐVT đang chuẩn bị một vở diễn mới để giết người và lừa bịp bà con kiếm tiền như những sự thật của tổ chức này vừa được những người trong nội bộ phanh phui!”. Nhưng nên nhớ rằng, trước một trò lừa bịp, người ta chỉ mắc mưu một lần!
“Vụ trưởng vụ quốc nội” Việt Tân Nguyễn Quốc Quân sa lưới:
Nguyễn Quốc Quân bị bắt tại Việt Nam hôm 17/11/2007. Khi bị bắt, Nguyễn Quốc Quân đã trình ra chứng minh của Campuchia, có tên Ly Seng. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra, Ly Seng khai tên thật là Nguyễn Quốc Quân, sinh ngày 20/11/1953 ở Hà Nội. Quân còn có các tên gọi khác là Tuấn Anh; Lê Trung; Chu Cảnh Lâm; Ly Seng… và đây chính là người mà Tổng lãnh sự quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã có công văn gửi Sở Ngoại vụ TPHCM đề nghị giúp đỡ xác định chỗ ở hiện thời của công dân Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Quân, sinh ngày 20/11/1953.
Tại cơ quan điều tra, Quân khai nhận là công dân mang hộ chiếu Hoa Kỳ. Quân là “ủy viên trung ương đảng Việt Tân” giữ chức “vụ trưởng vụ quốc nội” có mật danh là C21, phụ trách phát triển lực lượng trong công nhân viên chức tại Việt Nam và những lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài, nhằm đào tạo và đưa những “nhân viên sạch” này cài cắm sâu vào nội bộ chính quyền để phục vụ cho âm mưu lật đổ chính quyền Việt Nam sau này.
Do giữ chức vụ là ủy viên trung ương của tổ chức “Việt Tân”, Nguyễn Quốc Quân đã đến Campuchia bí mật thành lập “cơ sở kinh tài” để chứa chấp những phần tử khủng bố và tổ chức làm giấy tờ giả nhằm hợp thức hóa việc đưa người xâm nhập vào Việt Nam của tổ chức “Việt Tân”.
Do Nguyễn Quốc Quân muốn làm gương cho những thuộc cấp nên y đã tự làm giả cho mình một giấy CMND mang tên Ly Seng, quốc tịch Campuchia để xâm nhập vào Việt Nam bằng đường bộ qua biên giới Việt Nam-Campuchia.
Trên đường đi Nguyễn Quốc Quân đã ghi lại toàn bộ lịch trình lẫn hành trình, cũng như trạm kiểm soát của Campuchia và Việt Nam để làm lộ trình chính thức cho đồng bọn xâm nhập vào Việt Nam sau này. Nguyễn Quốc Quân cũng khai rõ, chuyến xâm nhập này ngoài việc thiết lập đường dây xâm nhập cho đồng bọn, Quân cũng muốn kiểm tra thực tế hoạt động nội địa của tổ chức “Việt Tân”, và tìm hiểu rõ vì sao mỗi năm tổ chức này chỉ phát triển thêm được một vài hội viên (?).
Cũng từ lời khai nhận của Nguyễn Quốc Quân, nhiều cơ sở của tổ chức “Việt Tân” nằm vùng tại Việt Nam đã bị lực lượng an ninh kiểm soát, phá rã.
Dùng Thái Lan làm địa bàn để xâm nhập, chống phá đất nước:
Như vậy, Quân chính là cấp trên của 6 đối tượng vừa bị bắt quả tang khi đang tổ chức phát tán truyền đơn, tài liệu xuyên tạc, chống phá nhà nước Việt Nam. Trong đó có Nguyễn Thị Thanh Vân (sinh năm 1956, quốc tịch Pháp); Trương Leon (còn có tên gọi khác là Trương Văn Sỹ, sinh năm 1953, quốc tịch Mỹ); Lương Ngọc Bang (tên gọi khác là SomSak, sinh năm 1940, quốc tịch Thái Lan).
Việt Tân là tổ chức khủng bố được Hoàng Cơ Minh, nguyên chuẩn tướng, phó đề đốc hải quân ngụy lập ra năm 1982. Tổ chức này có tiền thân là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”, Bọn phản động ở Thái Lan đã từng cung cấp lương thực, vũ khí cho Việt Tân. với hiến chương và cương lĩnh chính trị nhằm mục tiêu lật đổ chế độ XHCN Việt Nam.
Xét xử và trục xuất:
Chiều 17/5, cơ quan chức năng Việt Nam đã tiến hành các thủ tục trục xuất Nguyễn Quốc Quân, Việt kiều Mỹ, “uỷ viên trung ương” của tổ chức khủng bố Việt Tân, sau khi Quân mãn hạn 6 tháng tù vì đã xâm nhập Việt Nam trái phép bằng giấy tờ giả để tiến hành âm mưu khủng bố.
Việc trục xuất Quân được thực hiện trước sự chứng kiến của đại diện Lãnh sự quán Mỹ tại TP.HCM.
Trước đó, như đã nói ở trên, vào ngày 17/11/2007, để thực hiện cái gọi là”kế hoạch sang sông” do bọn cầm đầu Việt Tân vạch ra, Nguyễn Quốc Quân đã sử dụng một căn cước Cămpuchia giả mạo mang tên Ly Seng, xâm nhập trái phép vào Việt Nam, phối hợp cùng Nguyễn Thị Thanh Vân (Việt kiều Pháp), Trương Văn Sỹ (Việt kiều Mỹ), Nguyễn Hải (Việt kiều Thái Lan) và Nguyễn Thế Vũ cư trú tại TP.HCM nhằm tiến hành âm mưu khủng bố. Tuy nhiên, cả bọn đã bị cơ quan an ninh Việt Nam bắt quả tang cùng với nhiều tang vật phạm pháp.
Sau đó, Nguyễn Thị Thanh Vân, Trương Văn Sỹ đã viết bản tự khai, thú nhận tội lỗi, xin được khoan hồng và đã bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Vào ngày 13-5, TAND TPHCM đã tuyên phạt án sơ thẩm đối với ba bị cáo phạm tội “khủng bố” theo khoản 3, điều 84 Bộ Luật Hình sự, gồm:
Nguyễn Quốc Quân (SN 1953, Việt kiều Mỹ) 6 tháng tù giam và trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù; Nguyễn Hải (SN 1951, tên gọi khác Khunmi Somsak, Nguyễn Quang Phục, sống tại Thái Lan, quốc tịch Việt Nam) 9 tháng tù giam và buộc quản chế tại địa phương trong 3 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù; Nguyễn Thế Vũ (SN 1977, quê Bình Thuận, ngụ quận 11-TPHCM) 5 tháng 26 ngày tù giam (bị cáo được thả tự do ngay tại tòa do đã chấp hành xong hình phạt tù), áp dụng hình phạt bổ sung buộc quản chế tại địa phương trong 1 năm.
Theo Hội đồng Xét xử, cả ba bị cáo tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, bày tỏ sự ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi sai trái. Bị cáo Nguyễn Quốc Quân thừa nhận tham gia điều hành và gây quỹ cho tổ chức khủng bố “Việt Tân” và xâm nhập vào Việt Nam thực hiện âm mưu khủng bố.
Trước khi ra sân bay, Nguyễn Quốc Quân đã cảm ơn cơ quan chức năng Việt Nam đã đối xử rất khoan hồng, nhân đạo trong suốt thời gian bị giam giữ, cũng như nhìn nhận hành vi vi phạm luật pháp Việt Nam của mình.
Từ 1980 đến nay, Việt Tân đã liên tiếp bị đập tan các âm mưu chống phá nhà nước Việt Nam, cho dù chúng được hỗ trợ đắc lực của các tổ chức phản động ở nước ngoài, nhưng sự thật đã chỉ ra rằng:
VIỆT TÂN ĐẶT CHÂN ĐẾN VIỆT NAM LÀ BỊ TIÊU DIỆT.
Đăng nhận xét